Ở bất kỳ quốc gia nào, lễ cưới cũng là một trong những việc hệ trọng nhất của đời người. Đám cưới ở Việt Nam cũng không ngoại lệ. Cho dù ở thời đại nào thì lễ cưới vẫn là một nét đẹp trong tâm thức của người Việt Nam. Trải qua rất nhiều giai đoạn, đám cưới truyền thống Việt Nam cũng đã được hiện đại hóa do chịu ảnh hưởng nhiều của Phương Tây. Người trẻ cho rằng đám cưới truyền thống vẫn quá phức tạp, nhiêu khê không cần thiết. Thế nhưng nét đẹp văn hóa truyền thống vẫn là một nét đẹp quý giá nhất cần được giữ gìn của ông cha ta.
Sự khác biệt giữa truyền thống và hiện đại có thể nói thể hiện nhiều nhất trong văn hóa cưới của một quốc gia. Một sự dung hòa đứng giữa luôn là cần thiết.
Đây là một chủ đề rất rộng lớn, thế nhưng chúng tôi sẽ giúp bạn điểm qua một cách gọn nhất để chúng ta là những cô dâu/chú rể thật văn minh nhé.
Về định nghĩa, lễ cưới ngày nay vẫn giữ nguyên là một phong tục văn hóa trong hôn nhân nhằm thông báo rộng rãi về sự chấp nhận của xã hội và các bên thành hôn về cuộc hôn nhân.
QUAN NIỆM VỀ CƯỚI:
Truyền thống:
Trong tâm thức người Việt thì lễ cưới có giá trị cao hơn cả giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Lễ cưới là đỉnh điểm của cả quy trình tiến tới hôn nhân, là hình thức liên hoan, báo hỉ mừng cô dâu, chú rể, mừng hai gia đình và có ý nghĩa rất thiêng liêng.
Ngày xưa, con người cá nhân hòa trong cộng đồng làng xã đến mức tối đa, mọi nghĩa vụ và quyền lợi cá nhân đều liên quan đến cộng đồng và bị cộng đồng chi phối, kể cả quyền hạnh phúc lứa đôi. Vì vậy“hôn nhân không phải là việc riêng của hai người mà là việc hai họ dựng vợ gả chồng cho con cái”
Hôn nhân của đôi trai gái còn là việc xác lập mối quan hệ giữa hai gia đình trước kia “không quen biết” nay trở thành thông gia. Vì vậy cần phải xem xét gia đình đó có môn đăng hộ đối với gia đình mình hay không.
Hiện đại:
Quan niệm về tầm quan trọng của một lễ cưới ngày nay vẫn giữ nguyên vẹn. Thế nhưng việc dựng vợ gả chồng không còn quá phụ thuộc vào cộng đồng. Nghĩa là đó là quyền quyết định của đôi trẻ, cho dù gia đình có ‘môn đăng hộ đối’ hay không. Việc này cũng cho phép cô dâu và chú rể được đặt tính cá nhân của mình vào một lễ cưới nhiều hơn.
Đứng về phía pháp luật, chỉ cần đôi nam nữ có giấy đăng kí kết hôn là được pháp luật bảo vệ. Thế nhưng, quan niệm chung của tất cả các cặp đôi vẫn là kết hôn phải được sự đồng ý của hai bên gia đìnhvà thông báo tới họ hàng và bạn bè.
CÁC NGHI THỨC TRONG LỄ CƯỚI VIỆT NAM
Truyền thống:
Tín ngưỡng và tập quán văn hóa Trung Hoa đã ảnh hưởng sâu sắc đến nghi lễ cưới xin của người Việt Nam trong suốt ngàn năm Bắc thuộc.
Các tục lệ cưới ngày xưa gồm có: mai mối, lễ nộp cheo (cheo là số tiền công ích nhỏ hoặc một số hiện vật như gạch lát, đóng cho làng để làm giếng, xây đường… sau này đã bị bãi bỏ), lễ dạm ngỏ, lễ ăn hỏi, gửi rể (gây khá nhiều phiền hà trong các mối quan hệ xã hội) lễ cưới và lễ lại mặt (cô dâu tỏ chữ hiếu với cha mẹ bằng cách sửa soạn gồm xôi gà, rượu bánh, hoa quả, đặt lên bàn thờ tổ tiên và làm lễ…)
Xưa kia, khi chú rể đem theo một lễ có thủ lợn bị cắt mất tai thì sẽ mất vui (là dấu hiệu của cô dâu đã không còn trinh trắng). Khi đó nhà gái phải trả lại nhà trai một số lễ vật đáng kể thì mọi chuyện mới yên ổn.
Hiện đại:
Một số tục lễ cưới ngày xưa đã được lược bớt để phù hợp với đời sống hiện đại. Nhiều hủ tục đã bỏ như tảo hôn, đa thê, thách cưới để nhường chỗ cho cách thức tổ chức mời vừa mang tính dân tộc nhưng vẫn văn minh.
Lễ cưới được tổ chức tại nhà hàng hoặc khuôn viên của gia đình. Cô dâu và chú rể rót rượu sâm banh và cắt bánh cưới mời hai bên gia đình. Sau đó họ trao nhẫn cưới cho nhau.
Tục lệ này được duy trì với ý nghĩa nhắc nhở con cái về đạo hiếu, biết ơn sinh thành, dưỡng dục của bố mẹ, thắt chặt thêm mối quan hệ thông gia, ruột thịt từ ngày đầu của đôi vợ chồng, với sự nhân đôi tình cảm.
TRANG PHỤC:
Truyền thống:
Trong ngày cưới của dân tộc Việt, các cô dâu miền Bắc thường mặc bộ áo mớ ba, ngoài cùng là chiếc áo the thâm, bên trong ẩn hiện hai chiếc áo màu hồng và màu xanh hoặc màu vàng với màu hồ thủy. Rồi đến áo cánh trắng, cuối cùng là chiếc yếm hoa đào có dải bằng lụa bạch.
Cô dâu miền Trung cũng mặc áo mớ ba, trong cùng là áo màu đỏ hoặc hồng điều, áo giữa bằng the hay vân tha màu xanh chàm, áo ngoài cùng bằng the hay vân tha màu đen.
Nhắc đến trang phục của cô dâu miền Nam, ấn tượng đáng nhớ nhất bao giờ cũng là bộ áo dài gấm, quần lĩnh đen, đi hài thêu.
Trang phục của chú rể ở cả ba miền đều giống nhau, thường thì mặc áo thụng bằng gấm hay the màu lam, quần trắng ống sớ, búi tóc, chít khăn nhiều màu lam.
Hiện đại:
Trong đám cưới ngày nay, cô dâu chú rể mặc trang phục theo kiểu phương Tây. Cô dâu mặc sorie trắng, chú rể mặc vest. Bộ váy cưới qua thời gian cũng được cách tân vô cùng hiện đại và đem lại sự thoải mái cho các cô dâu. Thế nhưng trong lễ ăn hỏi, hình ảnh thường thấy vẫn là áo dài truyền thống.
Đám cưới hiện đại của người Việt Nam đã có nhiều cách tân song vẫn giữ được nét truyền thống
Biểu trưng trong đám cưới hiện đại vẫn là lá trầu quả cau, và màu đỏ vẫn là màu chủ đạo trong đám cưới hiện đại. Những nghi lễ gia tiên vẫn được lưu giữ, trầu cau, bánh phu thê, mâm ngũ quả, lễ lên đèn…vẫn là những vật phẩm, nghi thức chính của văn hóa truyền thống.
Dư luận xã hội đối với việc tổ chức cưới ngày nay:
Tại lễ cưới, nhiều vấn đề xã hội diễn ra, mọi khen chê của dư luận đều tập trung vào. Tổ chức một đám cưới theo nghi thưc cổ truyền, người khen thì cho rằng thế mới là đám cưới Việt Nam, mới không du nhập từ bên ngoài. Nhưng người chê thì lại nói rườm rà, lãng phí, lạc hậu. Tất cả chỉ để khẳng định đúc kết của ông bà ta “ma chê cưới trách”, đó là điều không thể tránh khỏi. – Tuổi Trẻ.
Rất nhiều người nước ngoài tỏ ra thích thú khi được tổ chức một nghi thức cưới truyền thống của người Việt. Điều này thể hiện giá trị tinh thần của đám cưới truyền thống chúng ta. Giữ một lễ cưới đúng nghĩa: vừa phù hợp với cuộc sống hiện đại, vừa giữ được những nét đẹp trong văn hóa truyền thống Việt Nam là một điều rất cần chú trọng cho các tân lang tân nương ngày nay